Tin tức
on Friday 29-11-2024 10:14am
Danh mục: Tin quốc tế
ThS. Trương Quốc Thịnh – IVF Tâm Anh
Mở đầu
Lạc nội mạc tử cung (LNMTC) là bệnh lý viêm suy yếu phụ thuộc estrogen, đặc trưng bởi sự hiện diện của các tuyến hoặc mô đệm nội mạc tử cung lành tính bên ngoài buồng tử cung. Bệnh lý ảnh hưởng đến khoảng 6 – 10% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, và khoảng 25 – 40% phụ nữ hiếm muộn được chẩn đoán LNMTC. LNMTC có nhiều tác động bất lợi đến sinh lý nang noãn, chất lượng noãn và sự phát triển của phôi. Công nghệ timelapse (TLM) cung cấp các hình ảnh được chụp mỗi 10 – 15 phút mà không ảnh hưởng đến quá trình nuôi cấy phôi. Điều này giúp cung cấp những cái nhìn sâu hơn về quá trình phát triển của phôi, đặc biệt trong trường hợp những phôi có nguồn gốc từ noãn có LNMTC. Ngoài ra, TLM cung cấp các thông số động học của phôi, giúp xây dựng các thuật toán tiên lượng khả năng thành công như chất lượng phôi nang, khả năng làm tổ và khả năng có thai sinh sống.
Kết quả
Nghiên cứu này tổng hợp các dữ liệu có liên quan đến LNMTC và sự phát triển của phôi được theo dõi TLM. Tổng cộng 5663 phôi được theo dõi, và các dữ liệu động học hình thái phôi được tổng hợp và tính toán.
Đối với chu kỳ tế bào đầu tiên (ECC1), trong nghiên cứu của Boynukalin, tPB2 và tPNa được ghi nhận là kéo dài hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm bệnh nhân LNMTC so với nhóm đối chứng, tuy nhiên ECC1 lại ngắn hơn đáng kể. Chu kỳ tế bào thứ hai (ECC2) được hoàn thành chậm hơn đáng kể ở phôi của bệnh nhân LNMTC so với nhóm đối chứng, tuy nhiên, tất cả các thông số hình thái khác (t2, t3, t4) và các sự kiện về thời gian (VP, ECC2a, ECC2) đều tương đồng giữa hai nhóm. Đối với chu kỳ tế bào phôi thứ ba (ECC3), phôi của bệnh nhân LNMTC hoàn thành giai đoạn từ t5 đến t8 chậm hơn từ 1 – 1,8 giờ so với nhóm đối chứng. CS2–8 giảm trong khi CS4–8 tăng ở phôi của bệnh nhân LNMTC, cho thấy sự phát triển kém hơn của phôi ở nhóm này. Tuy nhiên, các nghiên cứu khác không cho thấy sự khác biệt trong ECC3 giữa phôi của nhóm LNMTC và nhóm đối chứng. Mặt khác, nghiên cứu của Schenk chỉ ra rằng thời gian đạt t9 ở nhóm LNMTC nặng, dựa trên phân loại của rASRM, nhanh hơn đáng kể so với nhóm LNMTC nhẹ, trung bình và nhóm đối chứng (p < 0,01). Tuy nhiên, tổng thời gian là như nhau ở tất cả các nhóm khi kết thúc quá trình nén phôi (tMor).
Chỉ có một nghiên cứu đề cập đến sự phát triển của phôi từ giai đoạn tám tế bào đến giai đoạn phôi dâu và giai đoạn phôi nang. Nghiên cứu ghi nhận phôi của bệnh nhân LNMTC chậm hơn so với nhóm đối chứng ở hầu hết các mốc thời gian phát triển, bao gồm tM, tSB, tB và tEB. Số lượng phôi ở nhóm LNMTC có thông số tSB và tEB tối ưu thấp hơn đáng kể, thậm chí thời gian đạt đến tSB, tB và tEB cũng muộn hơn từ 1,5 – 2 giờ so với nhóm đối chứng. Khi phân loại phôi LNMTC theo mức độ bệnh, tSB kéo dài hơn và thời gian hình thành phôi nang cũng trễ khoảng 2 giờ ở nhóm rASRM cấp độ III - IV so với nhóm cấp độ I - II, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.
Một thước đo kết quả quan trọng trong IVF là chất lượng phôi và tỷ lệ phát triển phôi nang. Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ phôi chất lượng tốt thấp hơn đáng kể ở nhóm LNMTC. Số lượng phôi đủ chất lượng để chuyển phôi cũng thấp hơn ở nhóm LNMTC. Mặt khác, mức độ nghiêm trọng của LNMTC dường như không ảnh hưởng đến quá trình phát triển và chất lượng phôi nang. Nghiên cứu của Boynukalin đã so sánh chi tiết các thông số động học hình thái giữa phôi chất lượng tốt và chất lượng kém. Đối với phôi ở nhóm LNMTC, nghiên cứu ghi nhận sự khác biệt đáng kể giữa phôi chất lượng tốt và kém ở các thông số: tPB2, t2, t3, t4, VP, ECC1 và ECC2, trong khi ở nhóm đối chứng, chỉ có t5 và ECC2 là có khác biệt đáng kể.
Mặc dù có sự khác biệt về động học hình thái phôi giữa nhóm LNMTC và nhóm đối chứng, nhưng tỷ lệ làm tổ, tỷ lệ mang thai, tỷ lệ sẩy thai và tỷ lệ sinh sống đều không có sự khác biệt giữa hai nhóm. Khi đánh giá theo các cấp độ LNMTC khác nhau của rASRM để xác định tác động đến tỷ lệ mang thai và tỷ lệ sinh sống, không có sự khác biệt nào được ghi nhận. Mặt khác, khi so sánh các thông số động học hình thái giữa phôi không làm tổ và phôi làm tổ trong từng nhóm, nghiên cứu có ghi nhận sự khác biệt đáng kể. Trong nhóm LNMTC, t7, tSB và tB xảy ra muộn hơn đáng kể ở các phôi không làm tổ. Đối với nhóm đối chứng, tM, tSB, tB, tEB và tSC đều bị trì hoãn ở các phôi không làm tổ. Các phôi có phạm vi động học tối ưu ở s2, t5, tSB và tEB có khả năng làm tổ cao hơn ở cả hai nhóm. Nghiên cứu cũng ghi nhận ở các phôi thất bại làm tổ có tỷ lệ đa nhân cao hơn trong cả nhóm LNMTC (43,3% so với 33,3%, p=0,019) và nhóm đối chứng (40,5% so với 27,8%, p=0,019)
Bàn luận
LNMTC được cho là ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng noãn, dẫn đến sự phát triển phôi kém và giảm tỷ lệ mang thai tính trên số noãn thu được hoặc số phôi được chuyển. Nhiều cơ chế đã được đưa ra để giải thích tác động bất lợi này, bao gồm môi trường viêm cục bộ, tăng stress oxy hóa, rối loạn chức năng tổng hợp steroidogenesis, sự bất thường chức năng miễn dịch trong môi trường nang trứng và phúc mạc, cũng như suy giảm chức năng mô buồng trứng do LNMTC hoặc phẫu thuật. Việc noãn tiếp xúc với môi trường như vậy có thể gây ra các bất thường trong quá trình giảm phân và sự mất ổn định nhiễm sắc thể, dẫn đến giảm chất lượng phôi.
Nguyên nhân của những thay đổi trong động học hình thái phôi có liên quan đến LNMTC do nhiều yếu tố tác động. Các thành phần của tế bào chất và nhân của noãn có chất lượng tốt là cần thiết để phôi đạt được thời gian phân chia tối ưu, ví dụ như số lượng ty thể đầy đủ và bộ xương tế bào thực hiện được chức năng. Các thành phần tế bào này có thể thiếu hụt trong noãn của bệnh nhân LNMTC. Các thay đổi về mức độ hormone và sự tiếp xúc gia tăng với các cytokine, chẳng hạn như TNF-a và ROS, cũng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến các sự kiện động học hình thái sớm của phôi từ bệnh nhân LNMTC. Sự chậm trễ đáng kể trong việc thoát thể cực và các sự kiện động học hình thái sớm ở phôi cũng có thể khiến phôi dễ bị lỗi nhiễm sắc thể, dẫn đến phôi có tiềm năng làm tổ thấp. Hơn nữa, phôi từ bệnh nhân LNMTC có khả năng phát triển đến giai đoạn phôi dâu, blastocyst và blastocyst nở rộng kém hơn so với nhóm đối chứng.
Mặc dù có những khác biệt trong các thông số động học hình thái phôi, tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ sinh sống không có sự khác biệt đáng kể giữa nhóm LNMTC và nhóm đối chứng. Điều này ngụ ý rằng khi có phôi chất lượng tốt sẵn sàng để chuyển, tỷ lệ làm tổ và tỷ lệ mang thai vẫn tương đương nhau bất kể bệnh nhân có LNMTC hay không. Tuy nhiên, phụ nữ LNMTC có tỷ lệ thất bại trong việc tạo ra phôi để chuyển cao hơn, tỷ lệ hủy chu kỳ cao hơn và số lượng noãn thu được ít hơn từ các bệnh nhân này.
Kết luận
LMNTC đã được biết đến là nguyên nhân gây ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng noãn và sự phát triển của phôi ở những bệnh nhân thực hiện IVF. Việc theo dõi bằng công nghệ TLM đã cho phép chúng ta giám sát liên tục quá trình phát triển của phôi, qua đó mang lại cái nhìn sâu sắc về những rối loạn tinh vi có thể do LNMTC gây ra đối với động học hình thái của phôi. Dựa trên các nghiên cứu được đưa vào trong tổng quan này, các thông số động học tối ưu như t3-t2, t5, ECC2 và giai đoạn hình thành phôi nang của bệnh nhân LNMTC được ghi nhận có liên quan đến chất lượng phôi và tỷ lệ làm tổ cao hơn. Tuy nhiên, tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ sinh sống không có sự khác biệt giữa nhóm bệnh nhân LNMTC và nhóm đối chứng, bất chấp sự khác biệt về động học hình thái phôi, và không phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của bệnh.
Nguồn: Cupino-Arcinue D, Seeber B, Montag M, Toth B. Does endometriosis inflict harm on embryos? A systematic review of embryo morphokinetics analysed by time lapse monitoring in women with endometriosis. Arch Gynecol Obstet. 2024 Apr;309(4):1191-1203. doi: 10.1007/s00404-023-07293-1. Epub 2023 Dec 8. PMID: 38063893; PMCID: PMC10894102.
Mở đầu
Lạc nội mạc tử cung (LNMTC) là bệnh lý viêm suy yếu phụ thuộc estrogen, đặc trưng bởi sự hiện diện của các tuyến hoặc mô đệm nội mạc tử cung lành tính bên ngoài buồng tử cung. Bệnh lý ảnh hưởng đến khoảng 6 – 10% phụ nữ trong độ tuổi sinh sản, và khoảng 25 – 40% phụ nữ hiếm muộn được chẩn đoán LNMTC. LNMTC có nhiều tác động bất lợi đến sinh lý nang noãn, chất lượng noãn và sự phát triển của phôi. Công nghệ timelapse (TLM) cung cấp các hình ảnh được chụp mỗi 10 – 15 phút mà không ảnh hưởng đến quá trình nuôi cấy phôi. Điều này giúp cung cấp những cái nhìn sâu hơn về quá trình phát triển của phôi, đặc biệt trong trường hợp những phôi có nguồn gốc từ noãn có LNMTC. Ngoài ra, TLM cung cấp các thông số động học của phôi, giúp xây dựng các thuật toán tiên lượng khả năng thành công như chất lượng phôi nang, khả năng làm tổ và khả năng có thai sinh sống.
Kết quả
Nghiên cứu này tổng hợp các dữ liệu có liên quan đến LNMTC và sự phát triển của phôi được theo dõi TLM. Tổng cộng 5663 phôi được theo dõi, và các dữ liệu động học hình thái phôi được tổng hợp và tính toán.
Đối với chu kỳ tế bào đầu tiên (ECC1), trong nghiên cứu của Boynukalin, tPB2 và tPNa được ghi nhận là kéo dài hơn có ý nghĩa thống kê ở nhóm bệnh nhân LNMTC so với nhóm đối chứng, tuy nhiên ECC1 lại ngắn hơn đáng kể. Chu kỳ tế bào thứ hai (ECC2) được hoàn thành chậm hơn đáng kể ở phôi của bệnh nhân LNMTC so với nhóm đối chứng, tuy nhiên, tất cả các thông số hình thái khác (t2, t3, t4) và các sự kiện về thời gian (VP, ECC2a, ECC2) đều tương đồng giữa hai nhóm. Đối với chu kỳ tế bào phôi thứ ba (ECC3), phôi của bệnh nhân LNMTC hoàn thành giai đoạn từ t5 đến t8 chậm hơn từ 1 – 1,8 giờ so với nhóm đối chứng. CS2–8 giảm trong khi CS4–8 tăng ở phôi của bệnh nhân LNMTC, cho thấy sự phát triển kém hơn của phôi ở nhóm này. Tuy nhiên, các nghiên cứu khác không cho thấy sự khác biệt trong ECC3 giữa phôi của nhóm LNMTC và nhóm đối chứng. Mặt khác, nghiên cứu của Schenk chỉ ra rằng thời gian đạt t9 ở nhóm LNMTC nặng, dựa trên phân loại của rASRM, nhanh hơn đáng kể so với nhóm LNMTC nhẹ, trung bình và nhóm đối chứng (p < 0,01). Tuy nhiên, tổng thời gian là như nhau ở tất cả các nhóm khi kết thúc quá trình nén phôi (tMor).
Chỉ có một nghiên cứu đề cập đến sự phát triển của phôi từ giai đoạn tám tế bào đến giai đoạn phôi dâu và giai đoạn phôi nang. Nghiên cứu ghi nhận phôi của bệnh nhân LNMTC chậm hơn so với nhóm đối chứng ở hầu hết các mốc thời gian phát triển, bao gồm tM, tSB, tB và tEB. Số lượng phôi ở nhóm LNMTC có thông số tSB và tEB tối ưu thấp hơn đáng kể, thậm chí thời gian đạt đến tSB, tB và tEB cũng muộn hơn từ 1,5 – 2 giờ so với nhóm đối chứng. Khi phân loại phôi LNMTC theo mức độ bệnh, tSB kéo dài hơn và thời gian hình thành phôi nang cũng trễ khoảng 2 giờ ở nhóm rASRM cấp độ III - IV so với nhóm cấp độ I - II, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê.
Một thước đo kết quả quan trọng trong IVF là chất lượng phôi và tỷ lệ phát triển phôi nang. Nghiên cứu cho thấy tỷ lệ phôi chất lượng tốt thấp hơn đáng kể ở nhóm LNMTC. Số lượng phôi đủ chất lượng để chuyển phôi cũng thấp hơn ở nhóm LNMTC. Mặt khác, mức độ nghiêm trọng của LNMTC dường như không ảnh hưởng đến quá trình phát triển và chất lượng phôi nang. Nghiên cứu của Boynukalin đã so sánh chi tiết các thông số động học hình thái giữa phôi chất lượng tốt và chất lượng kém. Đối với phôi ở nhóm LNMTC, nghiên cứu ghi nhận sự khác biệt đáng kể giữa phôi chất lượng tốt và kém ở các thông số: tPB2, t2, t3, t4, VP, ECC1 và ECC2, trong khi ở nhóm đối chứng, chỉ có t5 và ECC2 là có khác biệt đáng kể.
Mặc dù có sự khác biệt về động học hình thái phôi giữa nhóm LNMTC và nhóm đối chứng, nhưng tỷ lệ làm tổ, tỷ lệ mang thai, tỷ lệ sẩy thai và tỷ lệ sinh sống đều không có sự khác biệt giữa hai nhóm. Khi đánh giá theo các cấp độ LNMTC khác nhau của rASRM để xác định tác động đến tỷ lệ mang thai và tỷ lệ sinh sống, không có sự khác biệt nào được ghi nhận. Mặt khác, khi so sánh các thông số động học hình thái giữa phôi không làm tổ và phôi làm tổ trong từng nhóm, nghiên cứu có ghi nhận sự khác biệt đáng kể. Trong nhóm LNMTC, t7, tSB và tB xảy ra muộn hơn đáng kể ở các phôi không làm tổ. Đối với nhóm đối chứng, tM, tSB, tB, tEB và tSC đều bị trì hoãn ở các phôi không làm tổ. Các phôi có phạm vi động học tối ưu ở s2, t5, tSB và tEB có khả năng làm tổ cao hơn ở cả hai nhóm. Nghiên cứu cũng ghi nhận ở các phôi thất bại làm tổ có tỷ lệ đa nhân cao hơn trong cả nhóm LNMTC (43,3% so với 33,3%, p=0,019) và nhóm đối chứng (40,5% so với 27,8%, p=0,019)
Bàn luận
LNMTC được cho là ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng noãn, dẫn đến sự phát triển phôi kém và giảm tỷ lệ mang thai tính trên số noãn thu được hoặc số phôi được chuyển. Nhiều cơ chế đã được đưa ra để giải thích tác động bất lợi này, bao gồm môi trường viêm cục bộ, tăng stress oxy hóa, rối loạn chức năng tổng hợp steroidogenesis, sự bất thường chức năng miễn dịch trong môi trường nang trứng và phúc mạc, cũng như suy giảm chức năng mô buồng trứng do LNMTC hoặc phẫu thuật. Việc noãn tiếp xúc với môi trường như vậy có thể gây ra các bất thường trong quá trình giảm phân và sự mất ổn định nhiễm sắc thể, dẫn đến giảm chất lượng phôi.
Nguyên nhân của những thay đổi trong động học hình thái phôi có liên quan đến LNMTC do nhiều yếu tố tác động. Các thành phần của tế bào chất và nhân của noãn có chất lượng tốt là cần thiết để phôi đạt được thời gian phân chia tối ưu, ví dụ như số lượng ty thể đầy đủ và bộ xương tế bào thực hiện được chức năng. Các thành phần tế bào này có thể thiếu hụt trong noãn của bệnh nhân LNMTC. Các thay đổi về mức độ hormone và sự tiếp xúc gia tăng với các cytokine, chẳng hạn như TNF-a và ROS, cũng có thể ảnh hưởng tiêu cực đến các sự kiện động học hình thái sớm của phôi từ bệnh nhân LNMTC. Sự chậm trễ đáng kể trong việc thoát thể cực và các sự kiện động học hình thái sớm ở phôi cũng có thể khiến phôi dễ bị lỗi nhiễm sắc thể, dẫn đến phôi có tiềm năng làm tổ thấp. Hơn nữa, phôi từ bệnh nhân LNMTC có khả năng phát triển đến giai đoạn phôi dâu, blastocyst và blastocyst nở rộng kém hơn so với nhóm đối chứng.
Mặc dù có những khác biệt trong các thông số động học hình thái phôi, tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ sinh sống không có sự khác biệt đáng kể giữa nhóm LNMTC và nhóm đối chứng. Điều này ngụ ý rằng khi có phôi chất lượng tốt sẵn sàng để chuyển, tỷ lệ làm tổ và tỷ lệ mang thai vẫn tương đương nhau bất kể bệnh nhân có LNMTC hay không. Tuy nhiên, phụ nữ LNMTC có tỷ lệ thất bại trong việc tạo ra phôi để chuyển cao hơn, tỷ lệ hủy chu kỳ cao hơn và số lượng noãn thu được ít hơn từ các bệnh nhân này.
Kết luận
LMNTC đã được biết đến là nguyên nhân gây ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng noãn và sự phát triển của phôi ở những bệnh nhân thực hiện IVF. Việc theo dõi bằng công nghệ TLM đã cho phép chúng ta giám sát liên tục quá trình phát triển của phôi, qua đó mang lại cái nhìn sâu sắc về những rối loạn tinh vi có thể do LNMTC gây ra đối với động học hình thái của phôi. Dựa trên các nghiên cứu được đưa vào trong tổng quan này, các thông số động học tối ưu như t3-t2, t5, ECC2 và giai đoạn hình thành phôi nang của bệnh nhân LNMTC được ghi nhận có liên quan đến chất lượng phôi và tỷ lệ làm tổ cao hơn. Tuy nhiên, tỷ lệ thai lâm sàng và tỷ lệ sinh sống không có sự khác biệt giữa nhóm bệnh nhân LNMTC và nhóm đối chứng, bất chấp sự khác biệt về động học hình thái phôi, và không phụ thuộc vào mức độ nghiêm trọng của bệnh.
Nguồn: Cupino-Arcinue D, Seeber B, Montag M, Toth B. Does endometriosis inflict harm on embryos? A systematic review of embryo morphokinetics analysed by time lapse monitoring in women with endometriosis. Arch Gynecol Obstet. 2024 Apr;309(4):1191-1203. doi: 10.1007/s00404-023-07293-1. Epub 2023 Dec 8. PMID: 38063893; PMCID: PMC10894102.
Từ khóa: lạc nội mạc tử cung, nuôi cấy timelapse, động học hình thái phôi, thụ tinh trong ống nghiệm (IVF)
Các tin khác cùng chuyên mục:
Mở rộng ứng dụng chiến lược PGT-M cho đột biến vi mất đoạn và vi lặp đoạn nhỏ - Ngày đăng: 29-11-2024
Tác động của nồng độ oxy đến sự trưởng thành noãn trong ống nghiệm: một nghiên cứu tiến cứu mù đôi chia noãn - Ngày đăng: 28-11-2024
Hiệu quả và an toàn của thủy tinh hóa noãn dư sau kích thích buồng trứng: so sánh các chỉ định lâm sàng khác nhau của bảo quản lạnh noãn trong các chu kỳ IVF/ICSI - Ngày đăng: 28-11-2024
Tỷ lệ thu hồi tinh trùng thành công và mang thai lâm sàng sau điều trị micro-TESE kết hợp ICSI ở bệnh nhân vô tinh không bế tắc do nhiều nguyên nhân khác nhau - Ngày đăng: 28-11-2024
Đặc điểm phôi học và kết quả lâm sàng từ noãn có màng trong suốt lõm - Ngày đăng: 26-11-2024
Kết cục thai kỳ sau khi bổ sung lợi khuẩn qua đường âm đạo trước khi chuyển phôi trữ: một nghiên cứu ngẫu nhiên có đối chứng - Ngày đăng: 26-11-2024
Tác dụng của việc kết hợp chất đồng vận GnRH trong phác đồ thay thế hormone đối với kết quả lâm sàng của chu kỳ FET ở các phụ nữ có độ tuổi khác nhau - Ngày đăng: 26-11-2024
Khởi đầu hỗ trợ hoàng thể bằng cách tiêm progesterone dựa trên nồng độ progesterone huyết thanh tối thiểu vào ngày chuyển phôi trong phác đồ chu kỳ tự nhiên thực sự của chu kỳ chuyển phôi đông lạnh - Ngày đăng: 26-11-2024
Hướng điều trị mới cho phụ nữ vô sinh: sử dụng tế bào gốc buồng trứng - Ngày đăng: 26-11-2024
Các yếu tố liên quan đến dấu hiệu giang mai bẩm sinh ở trẻ sơ sinh - Ngày đăng: 25-11-2024
Cơ chế của khảm nhiễm sắc thể trong phôi tiền làm tổ và tác động của nó đến sự phát triển phôi - Ngày đăng: 25-11-2024
TIN CẬP NHẬT
TIN CHUYÊN NGÀNH
LỊCH HỘI NGHỊ MỚI
Năm 2020
Quinter Central Nha Trang, chiều thứ bảy 11.1.2025 (13:00 - 17:00)
Năm 2020
Thành phố Hạ Long, Thứ Bảy ngày 22 . 3 . 2025
Năm 2020
Thứ bảy ngày 22 . 02 . 2025
GIỚI THIỆU SÁCH MỚI
Sách ra mắt ngày 10 . 10 . 2024
Y học sinh sản 59 - Bệnh truyền nhiễm và thai kỳ
Y học sinh sản 58 - Thai kỳ và các bệnh lý nội tiết, chuyển ...
FACEBOOK